
Ngay cả trước khi các dân tộc Slavơ phát triển, người Baltic và người Phần Lan-Ugric đã nuôi gà ở vùng đất ngày nay là Nga. Các nghiên cứu di truyền đã tiết lộ rằng các giống gà cổ được bảo tồn ở Nga chủ yếu có nguồn gốc châu Á, mặc dù một số giống có nguồn gốc Địa Trung Hải cũng tồn tại.
Nhiều giống gà đẻ trứng và gà thịt đã được tạo ra thông qua lai tạo chọn lọc cách đây một hoặc hai thế kỷ. Khoảng 50 giống được phát triển trước Cách mạng đã bị thất truyền. Mặc dù đến đầu thế kỷ 21, Nga đã là nước xuất khẩu thịt và trứng gia cầm hàng đầu, nhưng nhìn chung ngành công nghiệp này vẫn bị coi là lạc hậu nhất.
Nội dung
Các loại giống theo loại sản phẩm cuối cùng
Gà chủ yếu được nuôi để lấy trứng, thịt và được sử dụng trong công nghiệp. lông vũ, lông tơ và các sản phẩm phụ khácGà được nuôi để phục vụ nghiên cứu và thí nghiệm trong phòng thí nghiệm, và mầm bệnh virus được nuôi cấy trên phôi để sản xuất vắc-xin. Các giống gà được chia thành các nhóm dựa trên sản lượng cuối cùng và mục đích sử dụng:
thịt;
- trứng;
- thịt và trứng;
- Chiến đấu;
- ồn ào;
- trang trí.
Gà thịt được sử dụng để lấy thịt; đặc điểm chính của giống gà thịt là chúng trưởng thành sớm. Gà có thân hình to lớnMột loại mào nhỏ được trang trí bằng yếm, chân ngắn và cổ khỏe. Các giống gà thịt ở Nga bao gồm gà Cochin cổ đại, gà Brahma cổ đại của Mỹ, gà Langshan Trung Quốc và gà Cornish Anh. Các giống gà thịt hiện đại chủ yếu được tạo ra bằng cách lai giữa gà Cornish và gà Plymouth Rocks.
Đặc điểm đặc trưng của các giống gà đẻ trứng bao gồm thành thục sinh dục sớm và khả năng đẻ trứng cao trong thời gian dài với lượng thức ăn ít. Những đặc điểm này đảm bảo sản lượng trứng cao, trong khi trọng lượng cơ thể của gà mái tương đối nhẹ. Các giống gà đẻ trứng nâu được ưa chuộng hơn ở nước ngoài. Đặc điểm nổi bật của các giống gà đẻ trứng bao gồm mào lớn, mỏ dài đáng kể và chân ngắn. các giống trứng phổ biến nhất bao gồm:
- Gà Leghorn Mỹ;
- Giống chó Nga trắng;
- Gà Welsummer của Hà Lan;
- Vàng Séc;
- Minorca.
Các giống lai phổ biến của nhóm đẻ trứng được lai tạo trong phòng thí nghiệm: Zaslavskiy-1, Zarya-17, Borki-1, Start-N 23.
Gà chọi là loại gà cổ xưa nhất, vì chọi gà đã phổ biến ở Ý từ ba thiên niên kỷ trước và hiện được tổ chức ở nhiều quốc gia. Tuy nhiên, một số quốc gia đã từ bỏ chọi gà theo yêu cầu của những người yêu động vật và những người bảo vệ động vật. Chăn nuôi gia cầm ở Nga tại khu vực này bắt đầu vào cuối thế kỷ 19, và sau đó các giống gà chọi được sử dụng để chọn lọc gà lấy thịt. Những giống gà này có đặc điểm: cổ dài và chân có cựa, mỏ sắc nhọn và mào thu nhỏ. Các giống chó nổi tiếng thuộc nhóm này bao gồm:
- Tiếng Mã Lai;
- Cuộc chiến ở Moscow;
- Người Kulanga Trung Á.

Các giống gà cảnh được phân biệt với các giống khác bởi vẻ ngoài kỳ lạ, đôi khi khiến người ta khó nhận ra chúng là gà. Việc lai tạo được thực hiện bởi những người yêu thích. Giống gà đẹp nhất thế giới, gà Pavlovsk, được lai tạo ở tỉnh Nizhny Novgorod ba thế kỷ trước và gần như bị tuyệt chủng vào thế kỷ 22. Gà Pavlovsk có mỏ ngắn, râu và tóc mai có lông, với bờm rậm rạp trên cổ. Giống gà này có đuôi rậm, và gà có màu vàng, khói hoặc... đầu lông màu đen trên nền bạc. Hiện nay, các giống chó phổ biến nhất là Russian Crested, Ukrainian Crested, Curly-Coated, Galan, Dutch White-Crested và Houdan.
Các giống gà lấy thịt và lấy trứng
Ngành chăn nuôi gia cầm này lần đầu tiên xuất hiện ở Mỹ vào cuối thế kỷ 19. Ở Nga, các giống gà thịt hiện nay chủ yếu được nuôi ở các khu đất sau nhà và các trang trại gia cầm nhỏ. Những con gà này cho năng suất thịt và trứng cao, ngon miệng. Một nửa số giống gà được nuôi ở nước ta được phân loại vào loại này. Về ngoại hình, những giống gà này nằm giữa giống gà đẻ trứng và giống gà thịt.
Giống cá Adler bạc

Màu lông phụ thuộc vào giới tính của gà, giúp việc lựa chọn gà lai thương mại dễ dàng hơn. Những giống gà này có mào hình lá trên đầu tròn, chân và mỏ có màu vàng tươi.
Những con gà này được các nhà lai tạo sử dụng để phát triển các giống mới. Gà mái Adler Silver nặng 2,4–3 kg khi còn sống, trong khi gà trống nặng tới 4 kg. Chúng đẻ 150–180 trứng, năng suất trung bình.
Những giống gà này đẻ trứng từ sáu tháng tuổiChúng không mấy hứng thú với việc ấp trứng. Giống chó này khá dễ tính và không cần chăm sóc cầu kỳ; bản tính của chúng là điềm tĩnh và ôn hòa.
Australorp đen
Được phát triển tại Úc, giống gà này đã được nhập khẩu tích cực vào Liên Xô để phát triển thành dòng riêng. Giống gà này được sử dụng để lai tạo gà Australorp Đốm Đen, một giống gà có số lượng ít và miễn dịch với bệnh bạch lỵ. Chúng có ngoại hình giống gà Silver, nhưng màu lông sẫm hơn. Chúng phổ biến nhất ở Estonia. Đây là những con gà mái có kích thước lớn, nặng 2,5–3,1 kg, còn gà trống nặng tới 4 kg. Chúng nổi tiếng với sản lượng trứng cao - lên tới 220 trứng mỗi năm.
Cá hồi Zagorsk

Giống chó Kuchinskaya Jubilee
Được phát triển vào năm 1990 tại một trang trại gia cầm bằng cách lai giữa gà Plymouth Rock, New Hampshire, Australorp, Roy Island, gà Russian White và Liven, đàn gà ở Nga có số lượng 300.000 cá thể. Chúng là đại diện lớn nhất của nhóm gà thịt và gà trứng. gà trống nặng tới 4 kg hoặc hơnvà gà mái – nặng tới 3 kg. Chúng thường được nuôi ở các trang trại không chuyên biệt. Gà có kích thước lớn, thân hình thon dài và lông màu đỏ, vàng và nâu. Giống gà này nổi tiếng với khả năng nuôi dưỡng dễ dàng và hương vị thịt tuyệt hảo.
Gà mái trưởng thành đẻ trứng đầu tiên lúc 5-6 tháng tuổi, đẻ 180-220 trứng mỗi năm, trung bình mỗi quả trứng nặng tới 60 g. Thịt của chúng chứa nhiều protein hơn gà thịt. Chúng nổi tiếng với khả năng ấp trứng nhanh.
Moscow White
Đây là hậu duệ trực tiếp của ba giống: Pervomayskaya, Plymouth Rock và Russian White. Dân số ở nước ta là khoảng 300 ngàn đại diệnNhững con gà này có kích thước từ trung bình đến lớn khi mới sinh, với mào hồng và mỏ vàng. Thân dài, phủ lông trắng xòe, có ngực nhô cao. Gà Leningrad trắng là một giống gà họ hàng.
Về lượng thịt và trứng, giống gà này cho phép gà mái nặng tới 2,8 kg và gà trống nặng tới 3,5 kg. Số lượng trứng đẻ mỗi năm lên tới 190 quả, với trọng lượng trung bình khoảng 55 g.
New Hampshire và Đảo Hoàng gia

Gà New Hampshire khá phổ biến ở nước ta. Giống gà này được nuôi trong sân sau và được ưa chuộng bởi các chủ trang trại gia cầm quy mô lớn, vì gà mái không đòi hỏi sự chăm sóc cầu kỳ hay tốn công sức. Một con gà mái lớn có thể nặng tới 2,5 kg, và một con gà trống nặng tới 3,5 kg. Sản lượng trứng tốt có thể đạt tới 220 quả, nặng tới 60 g.
Điều kiện nuôi gà
Tổ tiên hoang dã của loài gà chúng ta là loài ăn tạp, và hậu duệ văn minh của chúng vẫn giữ được đặc điểm này cho đến ngày nay. Trong các trang trại chăn nuôi gà lấy thịt, chúng được cho ăn thức ăn hỗn hợp và ngũ cốc vụn, bột xương, bổ sung khoáng chất và kháng sinh để tăng trưởng nhanh hơn. Các trang trại nhỏ chuẩn bị thức ăn đa dạng tốtVí dụ, rau củ, khoai tây, rau xanh, ngũ cốc, sản phẩm bánh mì và bột mì. Gà được cho ăn hỗn hợp thịt luộc và trứng.
Các trang trại lớn sử dụng chuồng đặc biệt trên mặt đất hoặc chuồng gia súc trên sàn. Nếu điều kiện cho phép, sau khi cỏ tốt đầu tiên xuất hiện, gà mái sẽ được thả ra để vỗ béo, tại đây chúng sẽ ăn giun, côn trùng nhỏ và hạt cỏ. Sàn chuồng được phủ một lớp đá dăm và sau đó phủ một lớp bitum để giữ khô. Rơm rạ, than bùn, dăm bào hoặc lá cây được phủ lên trên lớp cuối cùng.
Thông gió
Mặc dù các giống gà hiện đại thích nghi hơn với điều kiện lạnh, nhưng không nên giữ nhiệt độ trong chuồng gà dưới 0ºC, và tiêu chuẩn tốt được khuyến nghị là từ 15 đến 16ºC. Độ ẩm không khí nên là không nhiều hơn và không ít hơn 65–70%Ở các vùng phía Nam, rất khó để duy trì nhiệt độ trong các thông số này, do đó cần có hệ thống thông gió và điều hòa không khí hiệu quả để tăng năng suất.
Chiếu sáng
Nếu đàn gà mái đang trong giai đoạn đẻ trứng, cần cung cấp ánh sáng ổn định, lâu dài với các thông số tăng dần. Nếu gà mái đẻ trứng có năng suất từ 15 tháng tuổi trở lên, không cần tăng thời gian chiếu sáng quá 18 giờ. Gà mái đang trong giai đoạn thay lông sẽ phát triển tốt với thời gian chiếu sáng giảm.
Bệnh gà
Mỗi giống gà có khả năng kháng một số bệnh, nhưng cơ thể gà lại không có khả năng chống lại một số bệnh khác. Các bệnh thường gặp bao gồm:
Bệnh bạch lỵ là một bệnh truyền nhiễm cấp tính liên quan đến sốt phó thương hàn. Gà con bị bệnh ngay sau khi nở, trở nên lờ đờ và khó thở. Gà trưởng thành có thể chỉ bị rối loạn đường ruột. Điều trị bằng kháng sinh và thuốc sulfa để dự phòng.
- Bệnh Colibacillosis ảnh hưởng đến gà dưới ba tháng tuổi và là một bệnh truyền nhiễm với thời gian ủ bệnh từ ba đến sáu ngày. Các triệu chứng bao gồm mỏ xanh, tiêu chảy và viêm phổi. Gà con chết nhanh chóng, và gà trưởng thành vẫn bị bệnh đến ba tuần. Gà bệnh sẽ bị giết mổ và loại bỏ, những con còn lại được cho dùng kháng sinh như một biện pháp phòng ngừa.
Có nhiều tên gọi khác nhau cho các bệnh ở chim, chẳng hạn như bệnh đậu mùa, viêm thanh quản khí quản, u hạt lympho, dịch hạch châu Âu hay cúm gia cầm, và dịch hạch châu Á. Nhưng để phòng ngừa tất cả các bệnh này, cần phải thực hiện xử lý vệ sinh theo lịch trình và hoạt động, sau mỗi chu kỳ, trước khi đưa đàn mới vào, lớp lót sẽ được thay thế và các biện pháp phòng ngừa khác sẽ được thực hiện.
Tóm lại, chăn nuôi gia cầm đã có những thay đổi đáng kể so với những năm gần đây. Những tiến bộ công nghệ tiên tiến đã giúp sản xuất trứng và thịt hiệu quả hơn. Các nhà lai tạo đang nỗ lực phát triển các giống gà có khả năng chống chịu bệnh tật và điều kiện chăn nuôi khắc nghiệt hơn.
thịt;
Bệnh bạch lỵ là một bệnh truyền nhiễm cấp tính liên quan đến sốt phó thương hàn. Gà con bị bệnh ngay sau khi nở, trở nên lờ đờ và khó thở. Gà trưởng thành có thể chỉ bị rối loạn đường ruột. Điều trị bằng kháng sinh và thuốc sulfa để dự phòng.

